Tôi sẽ nói sâu hợn một chút về làm các việc chết nghĩa là gi. . .và điếu gì biến chúng ta trở nện kiếu tôn giáo
thay vì trở nện người thuộc linh. Tôi muốn nhìn vào hai đặc tinh nữa của các việc chết trong bài học ngày
hôm nay.. nhưng hãy xem xét về những gì tôi đã nói trong các bài học trước. Tôi đã cô găng hiếu sư khác
biệt giữa kiếu người tôn giáo và người thuộc linh. Và tôi vân cố gắng xem điếu này tạo nện sư khác biệt
hoàn toàn như thế nào trện thế giới bởi vì những Cơ đốc nhân kiếu tôn giáo cuối cùng sẽ trở nện giống
những người "Pha-ri-si". Họ là những người đã đóng đinh Đấng Chiist. Còn những Cơ đốc nhân thuộc linh
sẽ trở nện giống như Chúa Jếsus. Vì thế đây không chỉ là một khác biệt nho nhỏ. Người Pha-ri-si không phải
là những con người luôn sống trong tội ngoại tình...trộm cắp. . .và giết người. . .vân vân. Họ không
xấu. . .không thế tuc.
Thưc chất họ được những người Do Thái không có khả năng phân biệt xem như những con người rất thuộc
linh trong thời của mình. Và hoàn toàn có thế cả những môn đồ của Chúa J ếsus cững tin vậy trước khi được
gặp Chúa. Có lẽ nếu tôi có được gặp Phi-ê-rơ, Gia-cơ hay Giăng. . .vi dụ như 2 hay 3 năm trước khi họ gặp
Chúa và hỏi: "Phi-ế-rơ này! Anh nghĩ ai là người thuộc linh trong làng?" Có thế Phi-ế-rơ sẽ nhắc tới một số
những người Pha- n'- s-i lớn tuối với bộ râu đài- những trưởng lão trong Nhà Hội của người Do Thái. Gia-cơ
và Giăng cọ' lẽ cững nói tượng tư bởi vì mấy người kia là những người mà họ tôn trọng như người lãnh đạo
bởi thấy mấy người kia kiếng an.. .cầu nguyện.. .mang theo mình những chiếc hộp nhỏ chưa Kinh thánh đế
trện trán. Mấy người đó thường ở trong Nhà Hội chiến đấu vì chân lý và đưng lện bảo vệ giáo lý đúng
đắn. . .đọc Kinh thánh. . .học Kinh thánh. . .và sốt sắng giữ gin Luật Pháp Môi-se. Vì thế Phi-ế-rơ, Gia-cơ và
Giăng hẳn sẽ nghĩ mấy người Pha-ri-si này rất thuộc linh.
Nhưng khi Chúa J esus đến và họ tham gia cùng Ngài, được nghe Chúa Jếsus bóc trần những người Pha- n'- si
như răn độc và những kẻ lừa dối xưng đáng đi xuông đia nguc… .hẳn mấy môn đồ đã bị sôc. Chỉ khi mắt họ
được mở ra. . .đế thấy những gì mình tưởng là thuộc linh thưc chất chỉ là hình thưc tôn giáo . . .họ mới có thế
thấy những người được coi là thuộc linh chi là hình thưc tôn giáo.
Chỉ khi Đưc Thánh Linh mở mắt tôi nếu không tôi có thế phạm sai 1ầmtươngtư. Có thế tôi hoàn toàn thật
thà giống như Phi- --e -rợ, Gia-cơ và Giăng mà vân mắc sai lầm. Khi tôi làm công việc phuc vu Chúa mà không
vui. . .khi làm một việc mà không có tình yếu thương. . .khi tham gia các hoạt động mà không sốt sắng. . .khi
làm việc gì đó mà không có đưc tin. . .khi làm gì đó để mình được lợi hoặc được người khác vi nế . . .khi làm
việc gì đó đợn giản chi để xoa diu lượng tâm. . .khi làm gì đó xuất phát từ nỗi sợ hãi bị sự trừng phạt từ Chúa
và khi làm chi vi mong được thưởng. . .thì nó có thế được xếp vào hạng muc việc chết.
Và giờ đến muc thư 9 . . .Trong sách 2 Cô-n'nh-tô 4: 10 sư đồ Phao-lô nói "Chúng tôi luôn luôn mang sự chết
của Đưc Jếsus trong thân thế mình để sự sống của Đưc J êsus cững được thế hiện trong thân thế chúng tôi."
Sự sống của Chúa Jếsus là ánh sáng cho nhân loại. Nếu tôi đặt câu hỏi cho chinh mình: "Ai là ánh sáng cho
nhân loại?" thì câu trả lời của tôi sẽ như thế nào? Nếu tôi giống hầu hết nhiếu người khác, có lẽ tôi sẽ nói:
"Chúa Jếsus là ánh sáng cho nhân loại." Và nếu trả lời thế sẽ là sai. Chúa J ếsus nói trong sách Tin Lành
Giăng chương 9 câu 5: "Đang khi còn ở thế gian, Ta là ánh sáng cho nhân loại." Vậy Chúa Jếsus nói Ngài là
ánh sáng cho nhân loại khi nào? . . .cho đến khi Ngài vẫn còn ở trong thế gian. Khi Ngài cầu nguyện với Chúa
Cha trong sách Giăng 17, Chúa nói cùng Chúa Cha: "Giờ con không còn ở trong thế gian nữa. Con sắp rời
thế gian và trở về với Cha." Giờ nếu Chúa J ếsus không còn ở trong thế gian nữa nhưng ở thiện đàng thì ngày
nay ai là ánh sáng cho nhân loại"? Ngài nói khi còn ở trong thế gian Ngài là ánh sáng cho nhân loại nhưng
Ngài đã đi rồi. Chúa bảo các môn đồ trong Ma-thi-ơ chương 5 câu 14: "Các con là ánh sáng của nhân loại."
Vì thế câu trả lời đúng cho câu hỏi: "Ai là ánh sáng cho nhân loại ngày nay?" Câu trả lời là "chính tôi" và tất
cả những ai là môn đồ của Chúa Jếsus Chiist. Nghe điếu này giống một tuyến bộ to tát nhưng đó chính xác
là điếu Chúa Jếsus đã nói. Và tôi cần phải thay đối cách nghĩ của mình, cần phải trở nện tượng ưng với sư
dạy dỗ trong Lời Chúa hợn.
Nói: "Tôi là ánh sáng cho nhân loại" nghĩa là gì? Kinh thánh nói trong Giăng chương 1 câu 4: "Trong Ngài
có nguồn sự sống và sự sống là ánh sáng cho nhân loại." Thế giới này đầy sự tối tăm. Nó bị cai trị bởi chúa
tế tối tăm - Satan. Và giữa sự tăm tối ấy Chúa muốn có một sự sáng tỏa ra vì Ngài. Bạn có nghĩ mọi người
có thế thấy sự sống của Chúa J ếsus trong chinh Chúa hay không? Không, Ngài ở thiện đàng. Họ không thế
thấy Ngài. Họ có thế thấy điếu đó ớ đấu? Họ phải nhìn thấy điếu đó trong tôi là người đi theo Chúa Jếsus
Christ. Nếu họ không thấy điếu đó trong tôi thì họ chẳng thấy ớ nợi nào khác. Nó ớ trong tôi. . .trong cách tôi
phản ưng lại với những hoàn cảnh khác nhau. . .và thấy cách tôi hành xử với tiến bạc . . .với cách tôi nói
chuyện cùng mọi người. Tại đó, họ thấy sự sống của Chúa Jệsus được thế hiện ra hay là không thế hiện ra.
Có lời Kinh thánh chép: "Sự sống của Chúa J esus được tỏ ra trong thấn thế hay chết của chúng ta. " Nói cách
khác, đấy là chỗ mà sự sáng tỏa ra tư tôi, từ nợi xuất phát động cơ làm các công việc khác nhau. Tồn tại
khác biệt rất lớn giữa việc lấy một cốc nước rội đổ ra.. .và một cốc nước liến tuc được đổ nước đấy tràn ra
ngoài. Có sự khác biệt. Một cốc nước đổ ra và một cốc nước bị tràn nước ra ngoài. Khác biệt này có thế áp
dung gì cho cuộc đời tôi? Liệu công việc phuc vu Chúa của tôi giống như đang đổ ra hay đang tràn ra vì
được sự sống của Chúa Jếsus đố đấy. sư khác biệt là rất lớn.
Chúa J ếsus nói nếu tôi khát và tin Ngài thì từ nợi sấu thẳm nhất trong con người tôi sẽ ra dòng sông của
nước sự sống. Đấu là sư khác biệt giữa một dòng sông và một cấn bợm nước bằng tay lấy nước chảy ra?
Khác biệt là quá lớn. Rất nhiếu người làm việc cho Chúa có lẽ chi giống cấn bợm nước bằng tay. Đôi khi
nước còn không chảy ra. . .đôi khi có sư phuc vu. . .tôi bợm, bợm và bợm và có it nước chảy ra được. Nhưng
trong trường hợp của Chúa J ếsus, Ngài phuc vu Chúa Cha không như thế. Và những con người thuộc linh
phuc vu Chúa Cha và cho Chúa Jệsus cững không như thế. Họ tuôn tràn. Đó không phải là đổ ra hay bợm ra
mà đó là sư tuôn tràn vì cuộc đời tôi được đấy dẫy sự sống của Chúa Jếsus.
Vấy làm thế nào tôi có thế bước đến cuộc sống như thế? Chỉ khi tôi mang sự chết của Chúa Jệsus. . .vác thấp
tự giá mỗi ngày. Nếu tôi không vác thấp tự giá mỗi ngày, sự sống sẽ không tuôn tràn ra từ bến trong tôi. Đấy
là một vi du thưc tế. Nếu tôi chi kiếm chế giọng điệu đế không nói ra lời bưc tưc hay mặt cau có nhưng vẫn
sôi lện vì giấn và khó chiu với ai khác từ lòng mình thì đó là tôi đang làm gì? Tôi đang thưc hiện sự tiết chế
bản thấn. Và bất kỳ ai cững có thế làm vậy. Tôi không cấn Đưc Thánh Linh đế có thế làm thệ. Tôi không cấn
Chúa Jếsus làm việc bện trong tôi mới có thế làm được như thệ. Tôi chi cấn kỷ luật chinh mình thất tốt.
Nhưng đó lại không phải điếu Chúa Jếsus đem đến cho tôi. Điếu đó là tốt nhưng chưa phải là nhất. Nó chi
sinh ra từ Luật pháp mà thôi. Nhưng Thánh Linh đến để mang sự chết bện trong tôi, nhờ đó tôi có thế tuôn
tràn từ bện trong. . .từ sấu thẳm nhất trong lòng sẽ tuôn ra sự tốt lành của Chúa J ếsus mà không có sư sôi suc
và tửc tối bến trong.
Giờ là đặc tinh cuối cùng của các việc chết.. .đặc tinh thứ 10… .là các công việc xuất phát từ ly luận nếng của
con người. Tôi đã xem xét điếu thư 9 là những công việc không mang thấp tự giá.. .không chết với chinh sự
sống của nếng mình. Và thứ 10 là những việc xuất phát từ lý luận của riếng tôi. Có lẽ ví dụ tốt nhất là việc
Ma- thế phuc vu Chúa tại Bệ- tha- ni được miếu tả trong Lu- -ca chương 10. Trong Lu- -ca 10 cấu 38- 42 tôi đọc
được rằng Chúa Jếsus đến Bế-tha-m và Ma-thế đã phuc vu Chúa. Làm thế chẳng phải là tốt hay sao? "Chúa
cùng các môn đồ đang đói và tôi cấn phải vào bếp và chuẩn bị chut đồ ăn cho họ." Bà ấy làm việc đó vì nghĩ
iàng nó tốt. Nhưng trong sách 1 Cô-n'nh-tô 42 thì Kinh thánh nói điếu quan trọng nhất của một đấy tớ đó là
làm theo điếu ông chủ sai khiến. . .chư không phải cảm thấy muốn làm gi. Nếu tôi có một người giup việc gia
đình hay giúp việc tại văn phòng thì tôi muốn người đó làm gì?...làm cái gì mà người đó thích. . .thấm chi
không Xấu mà là tốt. . .hay tôi muốn người đó làm chinh xác những gì tôi dặn dò? Đấy là sư khác biệt giữa sự
phuc vụ theo y con người nghĩ và công việc phuc vụ thuộc linh theo ý muốn của Chúa.
Lời Chúa chia tách giữa những gì thuộc về tấm tn' nếng và thuộc linh. Tôi đọc trong sách Hế-bơ-rơ 4: 10-12
rằng các công việc theo tấm tn' nệng là các việc chết. Chúng là việc làm xuất phát từ lý luận nệng của con
người. Có một cấu Kinh thánh rất kỳ lạ được viết về Chúa Jếsus trong Giăng 5 cấu 13 . . .rẳng Ngài không
bao giờ làm điếu gì theo ý nệng mình. Tưc là Ngài chờ đợi để lắng nghe xem Chúa Cha muốn Ngài làm
gi. . .chư không phải Ngài thấy muốn làm gi. Bởi vì Áp-ra-ham muốn giup Chúa một tay nện đã sinh ra Ích-
ma-ến là con người sau này gấy nện rất nhiếu rối loạn. Nếu ông chiu lắng nghe Chúa thì hẳn đã không làm
vậy. "Ích-ma-ến" là việc chết mà ngày nay rất nhiếu người làm. . .với lòng thành thất. . .muộn giup đỡ
Chúa. . .nhưng lại không tìm cấu ý muốn của Chúa. Vấy tôi nện làm gì bấy giờ? Có phải ngồi yến không làm
gì? Trái lại, hãy tìm kiếm Chúa. Nếu tôi yếu Chúa thì nếu tôi có phạm sai lấm cững không phải vấn đệ. Tôi
có thế sinh ra các công việc có tính thuộc linh để dấng vinh quang cho Chúa.